Bài đăng

Thuốc nào chữa bệnh sùi mào gà?

Hình ảnh
Em bị bệnh sùi mào gà ở âm hộ, em đã điều trị bằng phương pháp đốt điện nhưng sau 4 tháng, bệnh phát triển trở lại. Xin hỏi quý báo, em có thể sử dụng loại thuốc nào để chữa bệnh này? Nguyễn Thị Loan (Ninh Bình) Bệnh sùi mào gà do Human papova virus (HPV) gây ra, bệnh lây truyền do tiếp xúc trực tiếp qua đường tình dục và từ mẹ sang con trong lúc sinh. Sùi mào gà thường không có biểu hiện gì đặc biệt, không đau, không ngứa với sang thương kích thước 1 milimet đến vài chục, thậm chí vài trăm milimet, bề mặt sần sùi, màu hồng hoặc đỏ, mềm, ẩm ướt, có thể có cuống, sờ vào không đau, nhưng dễ chảy máu. Bệnh có thể được điều trị bằng cách đốt các sang thương với laser CO2 hay đốt điện nhưng biện pháp này chỉ loại bỏ được các nốt sùi chứ không tiêu diệt được virut nên các sang thương dễ phát triển trở lại. Về thuốc điều trị bệnh lý này, hiện nay đang sử dụng chủ yếu là dung dịch trichloactic axít và podophylline. Dung dịch trichloactic axit thường dùng nồng độ 50%. Sử dụng thuốc bằng cách

Ra nhiều mồ hôi ở tay có cách nào điềutrị mà không cần phẫu thuật?

Hình ảnh
Tôi năm nay 24 tuổi, ra nhiều mồ ở bàn tay và có mùi hôi ở nách; tôi mất tự tin trong công việc. Vậy tôi xin hỏi có cách nào điều trị mà không phải mổ không? ( Tuệ Thanh - TP.HCM) Đổ mồ hôi ở bàn tay, bàn chân và ra mồ hôi có mùi ở nách, hiện vẫn còn là vấn đề y khoa phổ biến, chiếm khoảng 3% trong dân số, ảnh hưởng sâu sắc lên chất lượng cuộc sống, ảnh hưởng đến sinh hoạt hàng ngày, trong làm việc, trong giao tiếp cũng như hoạt động nghề nghiệp. Với ý nghĩa đó, cùng với những tiến bộ khoa học, Clostridium botulinum type A ra đời nhằm góp phần đáp ứng nhu cầu và cũng như hiệu quả trong điều trị. Clostridium botulinum type A đã được sử dụng cách đây trên 20 năm, ngày nay với tên thương mại Dysport hay Botox, có nguồn gốc từ độc tố do vi khuẩn yếm khí gây ngộ độc thịt, có tên khoa học là Clostridium botulinum type A, nhưng đến tháng 4 năm 2002 mới chính thức được Cơ quan Quản lý Dược phẩm Thực phẩm Hoa Kỳ (FDA) cho phép lưu hành và đến 2003 chính thức cho phép được được sử dụng Clostrid

Dằn vặt bản thân và những mối nguy hại đối với sức khỏe

Hình ảnh
Dằn vặt bản thân được ghi nhận là một trong những biểu hiện của rối loạn lo âu - một chứng rối loạn tâm lý đã được y văn thừa nhận và nghiên cứu từ lâu. Những người có hành vi này thường xuyên tự trách móc bản thân mình vì những lỗi lầm trong quá khứ và lo sợ về những việc chưa xảy đến. Về mặt bệnh lý, hành vi tự dằn vặt bản thân thường song hành cùng các chứng rối loạn trầm cảm và lo âu khác. Hầu hết những người rơi vào tình trạng lo âu thường trực đều có xu hướng tự dằn vặt bằng cách suy nghĩ tiêu cực quá mức về những chuyện nhỏ nhặt trong cuộc sống hàng ngày và “nhai đi nhai lại” những suy nghĩ này không dứt. Bộ não của họ cảnh giác và nhạy cảm hơn bình thường, thường xuyên trong trạng thái soi xét và đề phòng bất kỳ tác nhân nào nó cho là nguy hiểm hoặc đáng lo ngại. Vì thế, một khi tình trạng này không được khắc phục, người dằn vặt thường xuyên sống trong lo âu, sợ hãi và không còn khả năng thư giãn. Những dấu hiệu để nhận biết hành vi tự dằn vặt bản thân Những người thường xuyên

Mỗi viên thuốc mỗi ngày để giảm 90% nguy cơ lây nhiễm HIV

Hình ảnh
Dự phòng trước phơi nhiễm HIV (PrEP) là dịch vụ giúp cho những người chưa bị nhiễm HIV nhưng có nguy cơ cao, có thể dự phòng lây nhiễm HIV bằng cách uống 1 viên thuốc mỗi ngày như một phần của chiến lược dự phòng HIV kết hợp. Đây là thuốc kháng vi-rút (ARV) chứa tenofovir. Khi một người phơi nhiễm với HIV qua quan hệ tình dục hoặc tiêm chích ma túy, biện pháp dự phòng trước phơi nhiễm HIV qua đường uống này có thể bảo vệ họ khỏi bị nhiễm HIV. Nếu được dùng đều đặn và thường xuyên, PrEP đã được chứng minh là sẽ làm giảm nguy cơ nhiễm HIV ở những người có nguy cơ cao tới 92%. Có thể dự phòng lây nhiễm HIV bằng cách uống 1 viên thuốc mỗi ngày. Từ năm 2015, Tổ chức Y tế Thế giới đã khuyến cáo mạnh mẽ việc sử dụng PrEP như một phần trong chiến lược dự phòng HIV kết hợp cho những người có nguy cơ nhiễm HIV cao. Giới thiệu dịch vụ PrEP là mục tiêu lâu dài do Kế hoạch Cứu trợ Khẩn cấp AIDS của Tổng thống Hoa Kỳ (PEPFAR) hỗ trợ thông qua Dự án Healthy Markets của Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa

Viêm loét bờ cong nhỏ dạ dày

Hình ảnh
Vị trí của bờ cong nhỏ dạ dày Dạ dày được phân chia thành nhiều bộ phận, từ phía trên nối với thực quản là tâm vị, đi xuống dưới là hang vị (bờ cong lớn), bờ cong nhỏ, tiền môn vị, môn vị. Bao phủ phía trong dạ dày là niêm mạc. Niêm mạc có nhiệm vụ bài tiết dịch vị. Dịch vị là một hỗn hợp các chất bao gồm các thành phần như axít clohidric (HCl) và enzyme pepsin. Trong dịch vị có chứa 99.5% nước, 0.5% vật chất chất khô. trong vật chất khô có chứa chất hữu cơ (protein. Các enzim như: axít lactic, ure, axít uric...), chất vô cơ (HCl, muối clorua, muối sunfat của các nguyên tố Ca, Na, K, Mg). Dịch vị giúp tiêu hóa thức ăn có bản chất protein thành các dạng polipeptid đơn giản hơn nhờ sự hiện diện của enzym pepsin. Ngoài ra, chất nhầy sẽ bao bọc thức ăn giúp cho quá trình vận chuyển thức ăn trong ống tiêu hóa dễ dàng hơn. dịch vị là 1 dịch thể thuần khiết, trong suốt có phản ứng axít và độ pH của dịch vị thay đổi tùy thuộc vào từng loại. Vì một lý do nào đó làm ảnh hưởng đến niêm mạc dạ dày

Dinh dưỡng cho người bệnh đái tháo đường

Hình ảnh
Vấn đề trọng tâm của ẩm thực điều trị bệnh đái tháo đường là cân bằng năng lượng, tức tiến hành điều tiết và khống chế chất cung cấp năng lượng đối với cơ thể. Do vậy, ẩm thực điều trị bệnh đái tháo đường gồm 3 nguyên tắc cơ bản: cân bằng tổng năng lượng; cân bằng chất dinh dưỡng và cân bằng phân bố thức ăn. Lập kế hoạch ăn uống cũng được đắn đo về 3 nguyên tắc cơ bản: tổng nhu cầu năng lượng, tỉ lệ chất dinh dưỡng glucid; protid và lipid trong tổng nhu cầu năng lượng, cũng như phương thức phân bố thức ăn trong ngày cho người bệnh. Đảm bảo cân bằng 3 chất dinh dưỡng căn bản Mỗi người bệnh đái tháo đường trong ăn uống hằng ngày protid; lipid; glucid tạo năng lượng sẽ khác với người bình thường. Glucid: một lượng glucid nhất định là cần thiết đối với việc cân bằng và điều tiết đường huyết một cách hài hòa. Chất bột đường cung cấp năng lượng đạt đến 40%. Ngũ cốc, bột mì, rau và các thức ăn khác có chứa chất xơ sẽ ảnh hưởng tỉ lệ hấp thu nhiều glucid, do vậy, tăng hấp thu lượng chất xơ là

Virus viêm gan C

Hình ảnh
Viêm gan C có thể dẫn đến ung thư gan Những triệu chứng không nên bỏ qua Đa số người bệnh chỉ thấy mệt mỏi, nhức đầu và có một số triệu chứng giống cảm cúm. Một số trường hợp có biểu hiện rối loạn tiêu hóa như đau bụng, chán ăn, đau tức vùng hạ sườn phải (vùng gan). Nếu ấn vào kẽ liên sườn 11 - 12 bên phải người bệnh sẽ thấy đau, tức, khó chịu. Lý do là do gan bị viêm, sưng làm cho màng ngoài gan cũng bị căng ra. Kèm theo đau có thể có hiện tượng vàng da, vàng mắt, nước tiểu sẫm màu như nước vối do gan bị viêm làm ảnh hưởng đến đường dẫn mật trong gan làm cho sắc tố mật ứ trệ. Triệu chứng đau và vàng da, vàng mắt đôi khi chỉ nhẹ làm cho người bệnh không để ý dễ bỏ qua mặc dù gan vẫn đang trong thời kỳ viêm rất nặng. Giai đoạn này có thể kéo dài khá lâu (khoảng 6 - 8 tuần) rồi bệnh có thể sẽ tự khỏi không cần điều trị bất kỳ một loại thuốc gì. Tuy vậy, số người bệnh tự khỏi này chỉ chiếm khoảng 15 - 30% các trường hợp. Số còn lại hoặc sẽ trở thành viêm gan C mạn tính hoặc trở thành ngườ